Đuối nước
đã và đang trở thành vấn đề nóng, được xã hội hết sức quan tâm, là vấn đề xảy
ra rất nhiều ở mọi lứa tuổi đặc biệt là trẻ em do không có các kỹ năng dưới
nước hoặc do tai nạn bất ngờ. Vì vậy cần nâng cao ý thức trong việc tìm hiểu và
áp dụng những biện pháp phòng tránh đuối nước.
Nguyên nhân
gây đuối nước ở trẻ em
– Đối với trẻ
nhỏ dưới 5 tuổi do các em chưa có nhận thức và không có khả năng chủ động đảm
bảo an toàn khi tiếp xúc với môi trường nước, bản tính hiếu động, tò mò, thích
khám phá, có các hành vi liều lĩnh, thích thể hiện bản thân.
– Trẻ em thiếu
kiến thức, kỹ năng để đánh giá, nhận định các nguy cơ nguy hiểm có thể xảy ra
đuối nước tại các môi trường như sông, hồ, ao, suối,… Nhiều trẻ em biết bơi,
thậm chí bơi giỏi nhưng vẫn bị tử vong do đuối nước là do các em thiếu kiến
thức, kỹ năng chủ động phòng tránh, không biết kỹ năng tự cứu và cứu đuối an
toàn.
– Bố mẹ, người
chăm trẻ và trẻ còn chủ quan thiếu sự giám sát đối với trẻ, chưa biết nguyên
tắc an toàn với môi trường nước, chưa biết bơi, chưa có kinh nghiệm cứu đuối
nước và sơ cấp cứu.
– Môi trường
sống xung quanh cũng luôn luôn có những yếu tố nguy cơ rình rập gây nên tai nạn
đuối nước cho trẻ em như chậu nước, chum vại, bể nước, giếng nước,… không có
nắp đậy an toàn; sông, hồ, suối, ao nước,… không được rào chắn và có biển báo
nguy hiểm.
– Vào mùa hè,
tiết trời nắng nóng nên nhu cầu tắm biển, sông, hồ, ao, suối tăng cao, thời
gian này cũng là lúc trẻ em nghỉ hè nên hay rủ nhau đi tắm biển, sông, hồ, ao,
suối không có người lớn đi cùng.
– Thiên tai bất
ngờ, phương tiện thủy, các điều kiện cho trẻ em vui chơi tại môi trường nước
chưa đảm bảo an toàn.
Địa điểm xảy ra
đuối nước thường ngay trong nhà hoặc gần nhà, trên đường trẻ đi học, gần nơi
vui chơi của trẻ, các khu vực giếng nước, hồ, ao, mương, máng, biển, sông,
ngòi, hố nước của các công trình hoặc dụng cụ chứa nước (thùng, lu, chậu, bồn
tắm,…).
Các
biện pháp phòng tránh đuối nước ở trẻ em
1. Giám sát kỹ
trẻ khi đi tắm biển, sông, hồ, ao, suối; không cho trẻ tự ý đi tắm biển, sông,
hồ, ao, suối mà không có sự giám sát của người lớn; không để trẻ dưới 6 tuổi ở
một mình trong bồn tắm.
2. Làm rào chắn
quanh ao, hồ nước, rãnh nước gần nhà nơi trẻ dễ tiếp cận và có nguy cơ bị đuối
nước. Đặt biển cảnh báo ở những nơi có nguy cơ gây đuối nước (hồ, ao, mương,
máng, sông, ngòi, vùng nước xoáy…). Sử dụng nắp đậy bằng vật liệu cứng, an toàn
cho bể nước, giếng khơi, dụng cụ chứa nước (lu nước, thùng nước, chậu nước, bồn
tắm,…).
3. Thường xuyên
nhắc nhở trẻ em về các biện pháp phòng tránhđuối nước ở các tình huống thường
gặp tại môi trường mà các em đang sinhsống. Chỉ bảo, hướng dẫn cho trẻ nhỏ, học
sinh không chơi đùa với nước khikhông có sự giám sát của người lớn, dạy cho trẻ
nhận biết những khu vực cónguy cơ bị đuối nước. Việc nhắc nhở, chỉ bảo này phải
được thực hiện thườngxuyên, liên tục và kiên trì sẽ giúp cho các em dần hình
thành ý thức, thóiquen tự bảo vệ bản thân.
4. Nên cho trẻ
tham gia học các lớp học kiến thức an toàn dưới nước, lớp học bơi.
5. Luôn tuân thủ
nguyên tắc an toàn khi lên, xuống các phương tiện giao thông đường thủy (đò,
tàu, thuyền, ghe,…) theo hướng dẫn của chủ phương tiện hoặc bảng chỉ dẫn tại
bến. Luôn ghi nhớ khi lên phương tiện giao thông đường thủy phải mặc áo phao và
quan sát vị trí các thiết bị cứu sinh để chủ động sử dụng khi không may gặp sự
cố.
6. Đưa trẻ đi
học trong mùa mưa lũ, đặc biệt khi phải đi qua suối, sông. Không di chuyển
nhiều trên mặt nước, đặc biệt là vùng nước chảy xiết, sông lớn. Chú ý hơn đến
việc trông nom, chăm sóc trẻ em để phòng tránh đuối nước tại nhà hoặc ở nơi sơ
tán tránh lũ lụt. Sơ tán trẻ em đến nơi an toàn trong trường hợp cần thiết. Các
bậc phụ huynh cũng nên trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng an toàn
phòng, chống đuối nước, cứu người bị đuối nước và các kỹ năng sơ cấp cứu.
Những
kỹ năng xử lý khi gặp trẻ đuối nước
1. Đặt trẻ nằm ở
chỗ khô ráo, thoáng khí. Nếu trẻ bất tỉnh, hãy kiểm tra xem có còn thở không
bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực. Nếu lồng ngực không di động tức là
trẻ đã ngưng thở; thổi ngạt miệng qua miệng 2 cái chậm. Nếu sau đó trẻ vẫn chưa
thở lại được tiến hành kiểm tra mạch cổ, mạch bẹn xem có đập không. Nếu không
bắt được mạch tức là nạn nhân đã ngưng tim. Tiến hành thổi ngạt và ép tim ngoài
lồng ngực theo cách như sau:
– Dùng 2 ngón
tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối hai đầu vú
1 đốt ngón tay.
– Dùng 1 bàn tay
(đối với trẻ từ 1-8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt chồng lên nhau (đối với trẻ hơn 8
tuổi và người lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2 đốt ngón tay. Phối hợp ấn tim và
thổi ngạt theo tỷ lệ 5/1 (đối với trẻ dưới 8 tuổi) hoặc 15/2 (đối với trẻ trên
8 tuổi).
2. Cần
lưu ý là vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác cấp cứu này trên đường chuyển
trẻ tới cơ sở y tế, cho đến khi tự thở lại được. Việc cấp cứu này đôi khi phải
mất hàng giờ hoặc lâu hơn.
3. Nếu trẻ đã
thở được, hãy đặt trẻ nằm nghiêng một bên để chất nôn dễ thoát ra, cởi bỏ quần
áo ướt, giữ ấm cơ thể bằng cách đắp lên người trẻ tấm khăn khô, nhanh chóng đưa
trẻ đến cơ sở y tế ngay cả khi trẻ có vẻ bình thường hoặc đã hồi phục hoàn toàn
sau sơ cứu vì nguy cơ khó thở thứ phát có thể xảy ra vài giờ sau khi ngạt nước.