Môi trường là gì?
Môi trường là tất
cả các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo, 2 yếu tố này có quan hệ mật thiết
với nhau và bao quanh con người. Chúng có ảnh hưởng đến đời sống, sự tồn tại và
phát triển của con người cũng như thiên nhiên. Song với tình hình như hiện nay,
môi trường của chúng ta bị ảnh hưởng rất nhiều, nhất là tình trạng ô nhiễm môi
trường.
Vậy ô nhiễm môi trường là gì? Ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi
trường bị thay đổi. Theo đó, các yếu tố có tính chất vật lý, sinh học, hoá học của
môi trường bị thay đổi hay còn gọi là “bị làm bẩn”. Sự thay đổi này gây ảnh
hưởng đến sức khoẻ con người cũng như các sinh vật khác.
Hiện nay có
3 dạng ô nhiễm môi trường chính đó là:
– Ô nhiễm
nước: Ô nhiễm nước là sự biến đổi theo hướng tiêu cực trong môi trường nước. Cụ
thể, trong môi trường nước sẽ xuất hiện các chất lạ ở dạng lỏng hoặc rắn. Sự
biến đổi này khiến nguồn nước trở thành chất độc hại đối với con người và động
vật. Xem đầy đủ về ô nhiễm môi trường nước.
– Ô nhiễm
đất: Ô nhiễm đất là việc trong môi trường đất xuất hiện các chất xenobiotic gây
hại ảnh hưởng tới đời sống của con người và động vật. Các chất này hình này bới
hoạt động công nghiệp, hoá chất nông nghiệp… Mức độ ô nhiễm còn tuỳ thuộc vào
mức độ sử dụng hoá chất và công nghiệp hoá. Xem đầy đủ về ô nhiễm môi
trường đất.
– Ô nhiễm
không khí: Ô nhiễm không khí là sự góp mặt của một chất lạ hoặc sự thay đổi
thành phần không khí. Điều này khiến không khí có mùi khó chịu, không sạch sẽ,
làm giảm khả năng quan sát do bụi. Xem đầy đủ về ô nhiễm môi trường không
khí.
Ô nhiễm môi
trường xuất
phát từ rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm dễ thấy
nhất, thường xuyên nhất đó là việc mọi người vứt rác bừa bãi.
Nguyên nhân của ô nhiễm môi trường
Môi trường bao gồm cả các yếu tố tự nhiên và nhân tạo và 02 yếu tố
này có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng đều bao quanh cuộc sống của con
người và môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của con
người và thiên nhiên.
Một môi
trường trong lành sạch sẽ sẽ giúp con người đảm bảo về mặt sức khỏe song ngược
lại nếu môi trường bị ô nhiễm về không khí, khói bụi, nước… sẽ khiến con người
mắc rất nhiều bệnh nguy hiểm, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và đe dọa đến
tính mạng của nhiều người.
Chính vì
thế bảo vệ môi trường là việc làm rất cần thiết và việc bảo vệ môi trường để
hiệu quả cần đến yếu tố về vận động, tuyên truyền giáo dục về nhận thức, hành
vi.
Môi trường
ô nhiễm sẽ có ảnh hưởng lớn đối với sức khỏe con người như việc ảnh hưởng của
khói bụi sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ hô hấp của con người, có thể gây nên
một số loại bệnh như viêm phổi, vô sinh.
Tiếp đến là
ô nhiễm không khí đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng
đau đầu, chóng mặt, bệnh tim mạch và nó cực kỳ nguy hiểm với người cao tuổi,
phụ nữ mang thai, người đang mang bệnh, trẻ nhỏ.
Không chỉ
vậy đối với hệ sinh thái thì thi môi trường bị ô nhiễm sẽ khiến hệ sinh thái bị
mất cân bằng và đe dọa đến sự tồn tại của nhiều loài sinh vật, động vật,
thực vật sống. Ngoài ra thì việc ô nhiễm không khí có thể gây ra mưa axit làm
hủy diệt nhiều khu rừng và làm chết nhiều loại động vật quý hiếm.
Mặt khác sự
ô nhiễm không khí còn làm ảnh hưởng trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế –
xã hội bởi môi trường ô nhiễm sẽ dẫn đến thiệt hại về kinh tế do bệnh tật xuất
hiện, thiệt hại kinh tế khi du lịch bị ảnh hưởng, thiệt hại do nông sản và thủy
sản bị phá hoại.
Vậy thì
trước những hậu quả như vậy, chúng ta chắc chắn phải cùng nhau chung tay bảo vệ
môi trường bằng cách tuyên truyền giáo dục để tình trạng này được khắc phục,
cải thiện.
iệc thực hiện nghiêm Luật Bảo vệ môi
trường 2022 là một trong những yếu tố tiên quyết để chung tay cùng
nhau, chúng ta tạo nên một môi trường sống trong lành – xanh – sạch – đẹp./.
VỀ LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NĂM 2020
Ngày 17 tháng 11 năm 2020 Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 10 thông qua thông
qua Luật Bảo vệ môi trường. Bộ luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022.
Luật Bảo vệ môi trường 2020 gồm 16 chương, 171 điều.
Nội
dung, điểm mới cơ bản của Luật Bảo vệ môi trường 2020, như sau:
NHỮNG ĐIỂM
MỚI CƠ BẢN CỦA LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 2020
So với Luật
BVMT năm 2014, Luật BVMT 2020 có những điểm mới mang tính đột phá chính như sau:
1. Lần đầu tiên, cộng đồng dân cư được quy định
là một chủ thể trong công tác BVMT; tăng cường công khai thông tin, tham vấn,
phát huy vai trò của cộng đồng dân cư trong các hoạt động BVMT
- Thời gian
qua, cộng đồng dân cư đã thể hiện vai trò ngày càng quan trọng trong công tác
BVMT, tiêu biểu nhất là thông qua việc hình thành các mô hình cộng đồng tham
gia BVMT hiệu quả. Sự tham gia của cộng đồng dân cư trong việc thu thập, cung
cấp thông tin về BVMT; tham gia đánh giá kết quả của doanh nghiệp.
Tuy nhiên,
Luật BVMT 2014 chưa quy định cộng đồng dân cư là một chủ thể trong công tác
BVMT, vì vậy chưa đẩy mạnh, phát huy được vai trò quan trọng của cộng đồng dân
cư trong công tác BVMT. Luật BVMT 2020 đã bổ sung “cộng đồng dân cư" vào
phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng nhằm khẳng định vị trí, vai trò của
nhóm đối tượng quan trọng này trong công tác BVMT cũng như thực hiện một trong
những mục tiêu xuyên suốt của Luật là bảo vệ sức khỏe người dân, đảm bảo người
dân được sống trong môi trường sạch.
Nhằm tạo
thuận lợi cho cộng đồng dân cư phát huy được vai trò của mình trong công tác
BVMT, Luật đã bổ sung quy định thiết lập hệ thống trực tuyến tiếp nhận, xử lý,
trả lời phản ánh, kiến nghị, tham vấn của tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư
về BVMT, qua đó giúp cộng đồng dân cư có thể tham gia giám sát hoạt động BVMT
thông qua công nghệ thông tin, tương tác các ứng dụng thông minh trên điện
thoại di động.
- Vấn đề
công khai thông tin đã được quy định xuyên suốt, thống nhất trong Luật BVMT
2020 theo các nội dung cụ thể về BVMT, cùng với một khoản riêng quy định việc
cung cấp, công khai thông tin về môi trường. Cụ thể, Luật đã bổ sung nguyên tắc
hoạt động BVMT phải được công khai, minh bạch; quy định rõ trách nhiệm công
khai thông tin liên quan đến chất lượng môi trường không khí, chất lượng môi
trường đất, kết quả quan trắc chất thải; chủ trương của Nhà nước là khuyến
khích tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp, cung cấp thông tin về môi trường;
trách nhiệm của Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và của chủ dự
án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu sản xuất, kinh doanh tập trung, cụm công
nghiệp trong việc cung cấp, công khai thông tin về môi trường.
- Lần đầu
tiên quy định việc công khai danh sách hội đồng thẩm định báo cáo ĐTM, dành một
Điều quy định công khai thông tin và sự tham gia của cộng đồng trong phòng
ngừa, ứng phó sự cố môi trường. Việc công bố, công khai quyết định phê duyệt
kết quả thẩm định báo cáo ĐTM của cơ quan thẩm định, công khai báo cáo ĐTM sau
khi được phê duyệt kết quả thẩm định của chủ dự án, nội dung báo cáo đề xuất
cấp GPMT, trừ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật của doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật để lấy ý kiến của các bên liên quan cũng đã được
quy định cụ thể trong Luật.
Hình thức
công khai được thực hiện thông qua cổng thông tin của cơ quan, tổ chức, trên các
phương tiện thông tin đại chúng hoặc các hình thức khác, bảo đảm thuận tiện cho
những đối tượng có liên quan tiếp nhận thông tin; giao Chính phủ quy định chi
tiết nội dung và việc quản lý thông tin về môi trường; trình tự, thủ tục, thời
điểm và hình thức cung cấp, công khai thông tin về môi trường.
- Lần đầu
tiên, trách nhiệm của chủ dự án trong việc tham vấn cộng đồng dân cư, được quy
định ngay từ khi lập báo cáo ĐTM. Trong đó, đã quy định rõ trách nhiệm thực
hiện tham vấn, đối tượng tham vấn, nội dung tham vấn chủ yếu, hình thức tham
vấn trong quá trình thực hiện ĐTM; kết quả tham vấn cộng đồng dân cư, cơ quan,
tổ chức liên quan là thông tin quan trọng để chủ dự án nghiên cứu đưa ra giải
pháp giảm thiểu tác động của dự án đối với môi trường và hoàn thiện báo cáo ĐTM
của dự án. Trong quá trình lập hồ sơ đề nghị cấp GPMT, Luật cũng đã quy định
trách nhiệm của chủ dự án trong việc tham vấn ý kiến các bên có liên quan.
2.Thay đổi phương thức quản lý môi trườngđối
vớidự án đầu tư theo các tiêu chí môi trường; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy
cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao, thực hiện hậu kiểm đối với các dự án
có công nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường; cắt giảm thủ tục hành chính
- Luật BVMT
2020 đã thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy quản lý môi trường thông qua
thể chế hóa chính sách phát triển dựa trên quy luật tự nhiên, không hy sinh môi
trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế; BVMT không chỉ là phòng ngừa, kiểm soát,
xử lý chất thải; các hoạt động sản xuất, phát triển phải hài hòa với tự nhiên,
khuyến khích bảo vệ và phát triển tự nhiên. Đồng thời, Luật cũng đặt ra các
tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm người dân Việt
Nam được hưởng chất lượng môi trường ngang bằng với các nước trên thế giới và
cũng, hài hòa với quy định của quốc tế để góp phần thực hiện các cam kết quốc
tế của Việt Nam về BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Lần đầu
tiên, Luật tiếp cận phương pháp quản lý môi trường xuyên suốt, khoa học đối với
dự án đầu tư dựa trên các tiêu chí môi trường; sàng lọc, không khuyến khích các
dự án không tuân theo quy luật tự nhiên, chiếm dụng lớn diện tích rừng, đất
lúa, tác động đến các di sản thiên nhiên, khu bảo tồn; áp dụng công cụ quản lý
môi trường phù hợp theo từng giai đoạn từ việc xây dựng chiến lược, quy hoạch
đến thực hiện dự án đầu tư.
Theo đó dự
án đầu tư được phân thành 04 nhóm: có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức
độ cao, có nguy cơ, ít có nguy cơ hoặc không có nguy cơ tác động xấu đến môi
trường. Tương ứng với từng đối tượng dự án cụ thể, cơ quan quản lý nhà nước về
môi trường sẽ áp dụng các cơ chế quản lý phù hợp, cụ thể là:
+ Quy định
chỉ đối tượng có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (Nhóm I) mới
phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường. Quy định này nhằm khắc phục các hạn chế,
bất cập của pháp luật hiện hành, gồm: Giảm TTHC cho nhiều nhà đầu tư, theo đó
các dự án không thuộc Nhóm I sẽ không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường
nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí.
+ Áp dụng
đầy đủ các công cụ môi trường để quản lý, sàng lọc dự án đầu tư có nguy cơ tác
động xấu đến môi trường mức độ cao (đánh giá sơ bộ tác động môi trường, ĐTM,
cấp GPMT nếu phát sinh chất thải); đối với các dự án áp dụng công nghệ tiên
tiến và được cấp GPMT ngay từ giai đoạn nghiên cứu khả thi và tổ chức hậu kiểm
(thông qua thanh tra, kiểm tra) khi dự án đi vào hoạt động hoặc chỉ phải đăng
ký môi trường (không phải là thủ tục hành chính, được thực hiện bằng hình thức
trực tuyến, đơn giản) tại UBND cấp xã. Bên cạnh đó, Luật cũng cải cách mạnh mẽ
TTHC thông qua việc tích hợp toàn bộ các giấy phép, giấy xác nhận về môi trường
vào chung 01 GPMT và bãi bỏ các giấy phép có liên quan;
+ Xác lập
lại đúng vai trò hoạt động quan trắc chất thải của doanh nghiệp, Luật quy định
các đối tượng xả nước thải, bụi, khí thải lớn ra môi trường phải quan trắc định
kỳ; đối tượng phải quan trắc tự động, liên tục bao gồm các cơ sở thuộc loại
hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với lưu lượng phát thải trung bình trở
lên và cơ sở không thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với lưu
lượng phát thải lớn, các khu, cụm công nghiệp. Đối tượng, thông số, tần suất
quan trắc cụ thể sẽ do Chính phủ quy định để phù hợp với điều kiện phát triển
khoa học, công nghệ và yêu cầu BVMT trong từng thời kỳ.
3.Đã định chế nội dung sức khỏe môi trường; bổ
sung nhiều giải pháp bảo vệ các thành phần môi trường, đặc biệt là môi trường
không khí, môi trường nước
- Nội dung
sức khỏe môi trường tuy không có quy định riêng nhưng đã được định chế trong
toàn bộ Luật BVMT 2020, thông qua việc bảo vệ các thành phần môi trường, qua đó
bảo vệ sức khỏe người dân, bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường
trong lành. Luật đã bổ sung nội dung quản lý các chất ô nhiễm có tác động trực
tiếp đến sức khỏe con người; quy định rõ trách nhiệm của Bộ Y tế, các Bộ, cơ
quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh trong theo dõi, kiểm soát, phòng ngừa các chất ô
nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng như đánh giá mối quan hệ giữa sức
khỏe môi trường với sức khỏe con người, đặc biệt là mối quan hệ giữa ô nhiễm
môi trường với các loại bệnh dịch mới.
- Riêng ô
nhiễm không khí và môi trường nước mặt đang là vấn đề bức xúc tại các lưu vực
sông và đô thị lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay hành lang pháp lý chưa đầy
đủ để quản lý chất lượng môi trường không khí, chất lượng môi trường nước và
thực hiện các biện pháp ứng phó khẩn cấp với tình trạng ô nhiễm không khí tại
các đô thị lớn.
Để giải
quyết vấn đề bức xúc nêu trên, Luật đã quy định việc lập và thực hiện kế hoạch
quản lý chất lượng môi trường nước mặt, môi trường không khí nhằm nâng cao hiệu
quả bảo vệ các thành phần môi trường; đồng thời quy định về tiêu chí và phân
loại khu vực ô nhiễm môi trường đất, quy định nội dung về xử lý, cải tạo và
phục hồi môi trường đất.
Luật cũng
đã quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong việc xây dựng, phê duyệt và
tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí; đánh giá, theo
dõi chất lượng môi trường không khí và công khai thông tin; cảnh báo cho cộng
đồng và triển khai các biện pháp xử lý trong trường hợp chất lượng môi trường
không khí bị ô nhiễm; tổ chức thực hiện biện pháp khẩn cấp trong trường hợp
chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Không chỉ
được quy định ở các nội dung về bảo vệ chất lượng môi trường không khí, đất,
nước, việc bảo vệ các thành phần môi trường này còn được thể hiện tại nhiều nội
dung có liên quan trong Luật như các nội dung về quản lý nước thải, quản lý
bụi, khí thải và các chất ô nhiễm khác cũng như các nội dung về quản lý chất
thải rắn (sẽ góp phần giảm tác động đến môi trường đất, nước và không khí),
quan trắc các thành phần môi trường, vv.
4. Thúc đẩy phân loại rác thải tại nguồn;định
hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải, góp phần thúc đẩykinh tế tuần
hoàn ở Việt Nam
- Hiện nay
tỷ lệ chôn lấp rác thải ở Việt Nam còn cao, một trong các nguyên nhân là do rác
thải chưa được phân loại dẫn đến khó khăn trong xử lý. Để khắc phục tình trạng
này, Luật BVMT 2020 đã quy định việc thu phí rác thải dựa trên khối lượng hoặc
thể tích thay cho việc tính bình quân theo hộ gia đình hoặc đầu người như hiện
nay. Cơ chế thu phí này sẽ góp phần thúc đẩy người dân phân loại, giảm thiểu
rác thải phát sinh tại nguồn do nếu không thực hiện việc này thì chi phí xử lý
rác thải phải nộp sẽ cao, thông qua quy định rác thải sinh hoạt phải được phân
làm 03 loại: (i) chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế; (ii) chất thải
thực phẩm; (iii) chất thải rắn sinh hoạt khác. Bộ TN&MT đã nghiên cứu kỹ
lưỡng mô hình và kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới hiện đang thực hiện
rất thành công việc thu phí xử lý rác thải qua hình thức bán bao bì, thiết bị
đựng rác như Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia phát triển khác.
Để bảo đảm
tính khả thi của cơ chế này, Luật đã đưa ra một số quy định như: (i) Căn cứ
điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
việc phân loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt với thời hạn áp dụng chậm nhất là
ngày 31/12/2024; (ii) Tại các điểm tập kết rác thải, nếu phát hiện việc phân
loại không đúng quy định thì đơn vị thu gom, vận chuyển có quyền từ chối thu
gom, vận chuyển và thông báo cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, xác định hộ gia
đình, cá nhân vi phạm và xử lý nghiêm (thông qua hệ thống camera giám sát);
(iii) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội các cấp vận động
cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân thực hiện phân loại chất thải rắn sinh
hoạt tại nguồn. Cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội có trách nhiệm
giám sát việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt của các hộ gia đình, cá nhân;
(iv) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ, xử lý hoặc
chuyển cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý chất
thải rắn sinh hoạt theo quy định.
Ngoài ra,
rác thải sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân khu vực nông thôn sau khi
phân loại được khuyến khích tận dụng tối đa lượng chất thải thực phẩm làm phân
bón hữu cơ, làm thức ăn chăn nuôi để phù hợp với điều kiện nông thôn tại Việt
Nam.
- Nhằm
hướng tới phát triển kinh tế tuần hoàn, tăng cường tái chế, tái sử dụng phế
liệu trong nước để hạn chế việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất,
ngoài quy định trách nhiệm phân loại chất thải rắn công nghiệp phát sinh từ cơ
sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thành các loại: (i) nhóm chất thải rắn công
nghiệp thông thường được tái sử dụng, tái chế làm nguyên liệu sản xuất; (ii)
nhóm chất thải rắn đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật được sử dụng
trong sản xuất vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng; (iii) nhóm chất thải rắn
công nghiệp thông thường phải xử lý, Luật lần đầu tiên đã quy định trách nhiệm
mở rộng của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì có khả
năng tái chế/khó có khả năng tái chế phải thu hồi với tỷ lệ và quy cách bắt
buộc hoặc thông qua hợp đồng dịch vụ hoặc cơ chế đóng góp tài chính để hỗ trợ
tái chế sản phẩm, bao bì do mình sản xuất, nhập khẩu.
5.Lần đầu tiên chế định về thẩm quyền quản lý
nhà nước dựa trên nguyên tắc quản lý tổng hợp, thống nhất, một việc chỉ giao
cho một cơ quan chủ trì thực hiện; phân cấp triệt để cho địa phương
- Việc thực
hiện song song thủ tục cấp giấy phép, giấy xác nhận về môi trường (do cơ quan
quản lý nhà nước về BVMT thực hiện) với cấp phép xả nước thải vào công trình
thủy lợi (do cơ quan quản lý nhà nước về công trình thủy lợi thực hiện) trong
thời gian qua đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, cụ thể là: một đối tượng là
nước thải của doanh nghiệp xả thải vào công trình thủy lợi tiếp tục phải thực
hiện hai TTHC có nhiều nội dung tương đồng; không bảo đảm nguyên tắc quản lý
tổng hợp về tài nguyên nước; phân tán chức năng quản lý nhà nước đối với đối
tượng là nước thải xả vào công trình thủy lợi; việc kiểm tra, thanh tra, xử lý
vi phạm hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật vào công trình thủy lợi do
các cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi không được kịp thời, thường xuyên,
hiệu quả (do pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy lợi
không có chế tài xử lý hành vi này).
Để khắc
phục vấn đề này, Luật BVMT 2020 đã bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xả nước thải
vào nguồn nước, xả nước thải vào công trình thủy lợi mà lồng ghép nội dung này
trong GPMT nhằm thống nhất trách nhiệm, thẩm quyền và nguyên tắc quản lý tổng
hợp tài nguyên nước; đồng thời giảm TTHC mạnh mẽ cho doanh nghiệp. Song song
với chế định này, Luật cũng đã bổ sung trách nhiệm, thẩm quyền tham gia, phản
biện và đồng thuận của cơ quan quản lý công trình thủy lợi ngay từ giai đoạn
ĐTM cho đến khi cấp GPMT đối với cơ sở xả nước thải vào công trình thủy lợi
nhằm tăng cường công tác phối hợp của các cơ quan.
Luật đã
phân cấp mạnh mẽ cho địa phương thông qua chế định giao UBND cấp tỉnh chủ trì,
phối hợp với các bộ có liên quan thẩm định báo cáo ĐTM đối với các dự án thuộc
thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của các Bộ quản lý
công trình xây dựng chuyên ngành (quy định hiện hành phân cấp các Bộ, ngành đều
có thể thẩm định báo cáo ĐTM) đồng thời quy định các bộ có liên quan có trách
nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quá trình thực hiện nhằm bảo
đảm hiệu quả. Quy định này sẽ bảo đảm quản lý thống nhất tại địa phương, thuận
lợi cho công tác kiểm tra, giám sát, cấp phép sau này và phù hợp với xu hướng
phân cấp cho địa phương như hệ thống pháp luật hiện hành.
6.Lần đầu chế định cụ thể về kiểm toán môi
trường nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý môi trường của doanh nghiệp
- Tiếp thu
kinh nghiệm thành công của quốc tế về kiểm toán môi trường được áp dụng đối với
các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhằm đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng tiết
kiệm tài nguyên, quản lý chất thải, kiểm soát ô nhiễm và BVMT, Luật BVMT 2020
đã bổ sung nội dung về kiểm toán môi trường nhằm điều chỉnh hoạt động kiểm toán
trong nội bộ tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ do đơn vị tự thực
hiện hoặc thông qua dịch vụ kiểm toán.
Mục đích
của hoạt động này nhằm tăng cường năng lực quản lý môi trường của doanh nghiệp,
giúp doanh nghiệp nhận biết lỗ hổng trong quản lý môi trường và có giải pháp
điều chỉnh hoạt động quản lý môi trường được hiệu quả hơn.
- Luật cũng
đã bổ sung quy định Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán trong lĩnh vực môi
trường theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và pháp luật có liên quan.
7. Cụ thể hóa các quy định về ứng phó BĐKH, thúc
đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước
- Chương IV
Luật BVMT 2014 đã quy định về ứng phó biến đổi khí hậu (BĐKH). Tuy nhiên, một
số nội dung đang chồng lấn với các điều khoản trong các chương khác của Luật
(nghiên cứu khoa học, quản lý chất thải, …), chưa cụ thể nội dung thích ứng
BĐKH, do vậy, Luật BVMT 2020 đã bổ sung các quy định về thích ứng với BĐKH,
giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-zôn, trong đó xác định nội dung
và trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành liên quan và địa phương về thích
ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; bổ sung quy định về lồng ghép
nội dung ứng phó với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch, thực hiện cam kết
quốc tế về BĐKH và bảo vệ tầng ô-dôn.
- Đặc biệt,
Luật đã lần đầu tiên chế định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon như
là công cụ để thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính trong nước, góp phần thực
hiện đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính do Việt Nam cam kết khi tham
gia Thỏa thuận Paris về BĐKH. Trong đó, quy định rõ đối tượng được phân bổ hạn
ngạch phát thải khí nhà kính và có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường
các-bon trong nước; căn cứ xác định hạn ngạch phát thải khí nhà kính; trách
nhiệm của các cơ quan quản lý, tổ chức liên trong trong việc phân bổ hạn ngạch
phát thải khí nhà kính; lộ trình và thời điểm triển khai thị trường các-bon
trong nước để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và điều ước
quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên.
8. Hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ di sản
thiên nhiên phù hợp với pháp luật quốc tế về di sản thế giới, đáp ứng yêu cầu
của quá trình hội nhập quốc tế
Theo Công
ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Công ước di sản thế
giới), di sản thế giới được chia làm 02 loại bao gồm: di sản thiên nhiên và di
sản văn hóa có các đặc điểm, tiêu chí hoàn toàn khác nhau (tiêu chí của di sản
thiên nhiên gắn với các yếu tố của tự nhiên, trong đó tiêu chí của di sản văn
hóa gắn với yếu tố con người). Việt Nam đã tham gia Công ước này từ năm 1987,
tuy nhiên, hệ thống pháp luật của Việt Nam về quản lý di sản thiên nhiên chưa
nội luật hóa đầy đủ và tương thích với nội dung của Công ước. Các quy định về
đối tượng là di sản thiên nhiên của Việt Nam đang được quy định tản mạn trong
một số pháp luật chuyên ngành như Luật Đa dạng sinh học (khu bảo tồn đất ngập
nước), Luật Lâm nghiệp (khu bảo tồn là rừng đặc dụng), Luật Thủy sản (khu bảo
tồn biển), thậm chí còn được quy định trong pháp luật về di sản văn hóa (Luật
Di sản văn hóa quy định di sản văn hóa còn bao gồm cả danh lam thắng cảnh là
một đối tượng của di sản thiên nhiên), do đó, chưa bao quát được toàn bộ các đối
tượng là di sản thiên nhiên cần bảo vệ (như công viên địa chất toàn cầu, khu dự
trữ sinh quyển, khu Ramsar –khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, vườn
di sản ASEAN), đồng thời thiếu quy định về việc xác lập cũng như chế độ quản lý
các di sản thiên nhiên cấp quốc tế này. Điều này tạo ra rào cản trong quá trình
hội nhập và thực hiện Công ước di sản thế giới mà Việt Nam đã tham gia cũng như
phát sinh nhiều vấn đề chưa được xử lý trong thực tiễn quản lý hiện nay.
Để khắc
phục các bất cập này, Luật BVMT 2020 đã đưa ra các quy định về tiêu chí xác lập
di sản thiên nhiên dựa trên cơ sở các tiêu chí của quốc tế và thực tiễn điều
kiện Việt Nam hiện nay; trong đó đối với các đối tượng là di sản thiên nhiên đã
được quy định trong pháp luật về lâm nghiệp, thủy sản, đa dạng sinh học và di
sản văn hóa thì vẫn thực hiện theo các quy định này để tránh xáo trộn, chồng
chéo. Đồng thời, quy định việc điều tra, đánh giá, quản lý và BVMT di sản thiên
nhiên để bảo vệ, phát huy giá trị bền vững di sản thiên nhiên ở nước ta.
9. Tạo lập chính sách phát triển các mô hình
tăng trưởng kinh tế bền vững, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, phục hồi và phát
triển nguồn vốn tự nhiên
Luật BVMT
2020 đã bổ sung một chương về các công cụ kinh tế và nguồn lực cho BVMT. Trong
đó, đã bổ sung các chính sách về phát triển, dịch vụ môi trường, sản phẩm, dịch
vụ thân thiện môi trường; ưu tiên thực hiện mua sắm xanh đối với dự án, nhiệm
vụ sử dụng ngân sách nhà nước; thúc đẩy việc khai thác, sử dụng và phát triển
vốn tự nhiên; đặc biệt là thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, bổ sung chính
sách về tín dụng xanh, trái phiếu xanh để huy động đa dạng các nguồn lực xã hội
cho BVMT.